Real Madrid Club de Fútbol (Câu lạc bộ Bóng đá Real Madrid), thường được gọi là Real Madrid hay đơn giản là Real, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Madrid, Tây Ban Nha. Đội bóng mặc trang phục màu trắng truyền thống từ khi được thành lập vào ngày 6 tháng 3 năm 1902 với tên gọi Câu lạc bộ Bóng đá Madrid.
Đang xem: So sánh đội hình real năm 2002 với 2014
Thông tin trong bài viết sử dụng tư liệu từ wikipedia.
1. Tổng quan CLB Real Madrid CF
Real Madrid Club de Fútbol (Câu lạc bộ Bóng đá Real Madrid), thường được gọi là Real Madrid hay đơn giản là Real, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Madrid, Tây Ban Nha. Đội bóng mặc trang phục màu trắng truyền thống từ khi được thành lập vào ngày 6 tháng 3 năm 1902 với tên gọi Câu lạc bộ Bóng đá Madrid. Từ Real (Hoàng gia) được vua Alfonso XIII phong cho câu lạc bộ vào năm 1920 cùng chiếc vương miện trên logo của đội. Câu lạc bộ trở thành một thế lực lớn tại đấu trường quốc nội và châu Âu từ những năm 1950. Real Madrid đã được bình chọn là đội bóng vĩ đại nhất thế kỷ XX. CLB hiện đang giữ kỷ lục với 13 danh hiệu European Cup/UEFA Champions League và là đội bóng vĩ đại nhất lịch sử giải đấu này.
Không giống như hầu hết các câu lạc bộ bóng đá khác ở châu Âu, những thành viên của Real Madrid (thường được gọi là socios) đã sở hữu và điều hành đội bóng từ khi thành lập. Câu lạc bộ có giá trị ước tính khoảng 3,24 tỉ € (khoảng 3,65 tỉ $) vào năm 2015 và tính tới mùa giải 2014-2015 là câu lạc bộ thương mại thành công nhất với lợi nhuận đạt 577 triệu €. Real Madrid cũng là một trong những câu lạc bộ bóng đá có số lượng người hâm mộ đông đảo nhất thế giới.
Real Madrid có nhiều kình địch, nổi bật nhất là Barcelona cùng những trận El Clásico (Siêu kinh điển) giữa 2 đội. Sân nhà của đội từ năm 1947 là Sân vận động Santiago Bernabéu tại quận Chamartín, trung tâm thành phố Madrid. Sân được khánh thành ngày 14 tháng 12 năm 1947 với sức chứa hiện nay là 85.454 khán giả và kích thước đường chạy là 106×72 mét.
Cùng với Athletic Bilbao và FC Barcelona, Real Madrid là một trong ba đội bóng chưa bao giờ bị xuống hạng ở giải đấu hạng nhất Tây Ban Nha. Ở đấu trường quốc nội, câu lạc bộ đã giành được kỉ lục 34 chức vô địch La Liga, 19 Cúp Nhà vua Tây Ban Nha, 11 Siêu cúp Tây Ban Nha, 1 Copa Eva Duarte và 1 Copa de la Liga.<8> Ở đấu trường quốc tế, Real Madrid lập kỉ lục 13 danh hiệu European Cup/UEFA Champions League, đồng kỉ lục với 3 Cúp liên lục địa, 2 Cúp UEFA Europa League, 4 Siêu cúp châu Âu và kỷ lục 4 FIFA Club World Cup.
Năm 2017, Real Madrid đã lập nên cột mốc mới trong lịch sử khi giành chiến thắng trước Juventus với tỉ số 4-1 trong trận chung kết cúp C1 để trở thành đội bóng đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch UEFA Champions League kể từ khi đổi tên giải đấu. Năm 2018, Real Madrid lại tiếp tục thiết lập nên cột mốc mới trong lịch sử UEFA Champions League khi giành chiến thắng trước Liverpool với tỉ số 3-1 trong trận chung kết để trở thành đội bóng đầu tiên giành chức vô địch 3 lần trong 3 trận chung kết Cúp châu Âu liên tiếp trong kỷ nguyên Champions League.
2. Lịch sử
2.1. Những năm đầu tiên (1897–1945)
Đội hình Real Madrid năm 1905 |
Khởi đầu của Real Madrid được bắt đầu khi bóng đá được mang tới thành phố Madrid bởi những giảng viên và sinh viên của Học viện Tự do, trong đó có nhiều người đến từ Cambridge và Oxford. Họ thành lập Câu lạc bộ Bóng đá Sky vào năm 1897, thi đấu vào những buổi sáng Chủ nhật tại Moncloa. Câu lạc bộ tách ra làm hai vào năm 1900: Câu lạc bộ bóng đá Madrid mới và Câu lạc bộ Madrid. Vào ngày 6 tháng 3 năm 1902, sau khi hội đồng mới đứng đầu là Juan Padrós được bầu ra, Câu lạc bộ Bóng đá thành Madrid được chính thức thành lập. Ba năm sau, vào năm 1905, Madrid FC giành được danh hiệu đầu tiên khi đánh bại Athletic Bilbao trong trận chung kết Cúp Nhà vua Tây Ban Nha. Câu lạc bộ trở thành một trong những thành viên đầu tiên của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha vào ngày 4 tháng 1 năm 1909, khi chủ tịch câu lạc bộ Adolfo Meléndez ký thỏa thuận thành lập Hiệp hội Bóng đá Tây Ban Nha. Đội bóng bắt đầu chuyển sang sử dụng sân Campo de O”Donnell vào năm 1912. Năm 1920, câu lạc bộ đổi tên thành Real Madrid sau khi được Vua Alfonso XIII đứng ra bảo hộ và phong tước vị “Hoàng gia”.
Năm 1929, Giải Vô địch Quốc gia Tây Ban Nha được thành lập. Real Madrid dẫn đầu mùa giải đầu tiên cho tới trận đấu cuối cùng, thất bại trước Athletic Bilbao khiến đội chỉ xếp ở vị trí thứ 2 sau Barcelona. Đội bóng giành được chức Vô địch Quốc gia vào mùa giải 1931–1932 và trở thành đội đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch ở mùa giải tiếp theo.
Ngày 14 tháng 4 năm 1938, đội bóng mất danh xưng Real và dùng lại tên Madrid C.F. vì sự ra đời của nền Cộng hòa ở Tây Ban Nha. Bóng đá được vẫn được diễn ra trong Thế Chiến 2 và vào ngày 13 tháng 6 năm 1943, Madrid đè bẹp Barcelona 11–1 trong trận lượt về bán kết Cúp Nhà vua Tây Ban Nha. Có người cho rằng những cầu thủ đã bị đe dọa bởi chính quyền, như việc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã “khẳng định với đội bóng rằng một vài người trong số họ còn chơi bóng chẳng qua là nhờ sự rộng lượng của chế độ này cho phép họ có mặt tại đất nước.” Chủ tịch Barcelona, Enric Piñeyro, đã bị hành hung bởi các cổ động viên Madrid.
1.2. Santiago Bernabéu Yeste và thành công ở châu Âu (1945–1978)
Santiago Bernabéu Yeste trở thành chủ tịch Real Madrid năm 1945. Dưới thời ông, câu lạc bộ, sân nhà Santiago Bernabéu và sân tập Ciudad Deportiva được tu sửa lại sau khi bị hư hại trong cuộc nội chiến. Từ năm 1953, ông đưa về Madrid một loạt các cầu thủ ngoại đẳng cấp thế giới mà tiêu biểu nhất chính là Alfredo Di Stéfano.
Xem thêm: Yếu Sinh Lý Nam Nên Ăn Gì Để Tăng “Bản Lĩnh” Đàn Ông Yếu Sinh Lý Nên Ăn Gì
Năm 1955, dựa trên ý tưởng của tổng biên tập tờ báo thể thao Pháp L”Équipe Gabriel Hanot, Bernabéu, Bedrignan và Gusztáv Sebes khởi xướng một giải đấu thường niên kêu gọi tất cả các đội bóng châu Âu tham dự, giải đấu mà ngày nay được biết đến dưới tên UEFA Champions League. Dưới thời Bernabéu, Real Madrid trở thành một thế lực hùng mạnh của cả bóng đá Tây Ban Nha nói riêng và châu Âu nói chung. Đội bóng đoạt năm Cúp châu Âu từ năm 1956 đến năm 1960, trong đó có chiến thắng 7-3 trước Eintracht Frankfurt trong trận chung kết Cúp châu Âu mùa 1959-1960 trên sân Hampden Park. Sau năm thành công liên tiếp, Real được phép giữ phiên bản thật của chiếc Cup, và có quyền in Huy chương Danh dự của UEFA lên áo thi đấu. Real Madrid dành chiếc cup thứ sáu mùa 1965-1966 khi đánh bại FK Partizan 2–1 trong trận chung kết với một đội hình mà tất cả các cầu thủ đều có cùng quốc tịch.<22> Đội hình ấy được gọi là Yé-yé. Cái tên “Ye-yé” xuất phát từ đoạn điệp khúc “Yeah, yeah, yeah” trong bài hát “She Loves You” của The Beatles sau khi bốn thành viên của đội chụp hình cho tờ Marca với những bộ tóc giả trên đầu. Thế hệ Ye-yé cũng là Á quân các kì Cúp châu Âu 1962 và 1964.
Vào những năm 1970s, Real Madrid dành thêm 5 danh hiệu La Liga và 3 Cúp nhà Vua. Đội bóng lọt vào trận chung kết UEFA Cup lần đầu tiên vào năm 1971 và thất bại trước đội bóng Anh là Chelsea với tỉ số 1-2. Ngày 2 tháng 7 năm 1978, chủ tịch câu lạc bộ Santiago Bernabéu qua đời khi World Cup đang được tổ chức tại Argentina. Liên đoàn bóng đá thế giới FIFA quyết định để tang ba ngày trong thời gian diễn ra giải đấu để vinh danh ông. Mùa giải sau đó, câu lạc bộ tổ chức Cúp Santiago Bernabéu đầu tiên để tưởng nhớ vị cố chủ tịch.
1.3. Quinta del Buitre và Cúp châu Âu thứ 7 (1980–2000)
Đầu những năm 1980s, Real Madrid mất đi vị thế của mình ở La Liga cho đến khi một nhóm những ngôi sao “cây nhà lá vườn” mang thành công ở đấu trường quốc nội tới câu lạc bộ. Phóng viên thể thao người Tây Ban Nha Julio César Iglesias đặt cho thế hệ cầu thủ ấy cái tên La Quinta del Buitre (Tạm dịch là “Năm con Kền kền”) lấy từ biệt danh của một trong những cầu thủ, Emilio Butragueño. Bốn người còn lại là Manuel Sanchís, Martín Vázquez, Míchel và Miguel Pardeza. Với La Quinta del Buitre (chỉ còn bốn thành viên sau khi Pardeza chuyển tới Zaragoza năm 1986) cùng những trụ cột như thủ môn Francisco Buyo, hậu vệ phải Miguel Porlán Chendo và tiền đạo người México Hugo Sánchez, Real Madrid sở hữu một trong những đội hình xuất sắc nhất Tây Ban Nha và châu Âu suốt nửa cuối thập kỉ 80, đoạt 2 cúp UEFA, 5 chức La LigaVô địch Tây Ban Nha liên tiếp, 1 Cúp nhà Vua và 3 Siêu cúp Tây Ban Nha. Đầu những năm 1990s, La Quinta del Buitre chia rẽ sau khi Martín Vázquez, Emilio Butragueño và Míchel rời khỏi câu lạc bộ.
Logo CLB xuất sắc nhất XX |
Danh hiệu CLB xuất sắc nhất XX |
Năm 1996, Chủ tịch Lorenzo Sanz chỉ định Fabio Capello làm huấn luyện viên của đội. Dù nhiệm kỳ của ông chỉ kéo dài đúng một mùa, Real Madrid vẫn khẳng định được vị thế nhà vô địch. Những cầu thủ như Roberto Carlos, Predrag Mijatović, Davor Šuker và Clarence Seedorf được đưa về để củng cố đội hình vốn đã hùng mạnh với những Raúl, Fernando Hierro, Iván Zamorano, và Fernando Redondo. Kết quả, Real Madrid (với sự gia nhập của Fernando Morientes năm 1997) cuối cùng cũng kết thúc 32 năm mòn mỏi chờ đợi chiếc Cúp châu Âu thứ bảy. Năm 1998, dưới sự dẫn dắt của Jupp Heynckes, đội bóng áo trắng đánh bại Juventus 1–0 trong trận chung kết nhờ bàn thắng của Predrag Mijatović.
Tháng 12 năm 2000, Real Madrid được bầu chọn là câu lạc bộ châu Âu xuất sắc nhất thế kỉ XX với 42.35% số phiếu, vượt xa so với Manchester United chỉ với 9.69%.
2.4. Los Galácticos (Dải ngân hà) (2000-2006)
Tháng 7 năm 2000, Florentino Pérez được bầu làm chủ tịch câu lạc bộ. Ông tuyên bố trong chiến dịch tranh cử của mình sẽ xóa bỏ khoản nợ 270 triệu Euro của câu lạc bộ và nâng cấp cơ sở vật chất cho đội. Dù vậy, lời hứa quan trọng nhất của ông đã thành công khi đưa về Luís Figo. Năm tiếp theo, đội bóng tái phân vùng khu tập luyện và bắt đầu tập hợp Dải ngân hà Galáctico nổi tiếng với những gương mặt lẫy lừng như Zinédine Zidane, Ronaldo, Luís Figo, Roberto Carlos, Raúl và David Beckham. Không thể phủ nhận đây là một canh bạc lớn khi đội bóng không thể giành được danh hiệu gì trong ba mùa giải sau khi dành một cúp UEFA Champions League, 1 Cúp liên lục địa năm 2002 và La Liga năm 2003.
Những ngày sau chiến thắng của đội bóng tại giải vô địch quốc gia 2003 diễn ra một loạt các cuộc tranh cãi. Đầu tiên là khi Pérez sa thải vị huấn luyện viên vừa mang vinh quang về cho đội sau khi Giám đốc Thể thao của Real khẳng định rằng del Bosque không phải người thích hợp cho công việc này; rằng họ cần một người trẻ hơn để cải tổ đội bóng. Bầu không khí căng thẳng tiếp tục khi huyền thoại đội trưởng Fernando Hierro rời bỏ câu lạc bộ sau một sự bất đồng ý kiến với ban giám đốc, theo chân là Steve McManaman.
Dù vậy, đội bóng vẫn lên đường đi thi đấu giao hữu chuẩn bị cho mùa giải sau ở châu Á và giới thiệu bản hợp đồng mới: David Beckham. Perez và ban giám đốc từ chối gia hạn hợp đồng và tăng lương Claude Makélélé. Makélélé cảm thấy thất vọng và chuyển đến Chelsea F.C. Vào những ngày cuối cùng của thị trường chuyển nhượng, Fernando Morientes ra đi theo dạng cho mượn đến Monaco. Real Madrid, với sự dẫn dắt của huấn luyện viên mới Carlos Queiroz, bắt đầu mùa giải La Liga một cách chậm chạp với chiến thắng nhọc nhằn trước Real Betis.
Mùa giải 2005-06 khởi đầu với một loạt những bản hợp đồng đầy hứa hẹn – Julio Baptista (20 triệu Euro), Robinho (30 triệu Euro) và Sergio Ramos (30 triệu Euro – Điều khoản phá vỡ hợp đồng) – nhưng vị huấn luyện viên người Brazil không thể tìm ra đội hình phù hợp. Real Madrid tiếp diễn màn trình diễn nghèo nàn với thất bại nhục nhã trước F.C. Barcelona trên sân nhà Santiago Bernabéu. Luxemburgo từ chức và được thay thế bởi Juan Ramón López Caro, huấn luyện viên đội B là Real Madrid Castilla lúc bấy giờ.
Thay đổi không hề đem lại làn gió mới mà thay vào đó là thất bại 1-6 trước Real Zaragoza ở lượt đi tứ kết Cúp nhà Vua. Một thời gian ngắn sau đó, Real Madrid bị loại khỏi Champions League năm thứ tư liên tiếp sau khi thua Arsenal. Ngày 27 tháng 2 năm 2006, Florentino Pérez từ chức.
Xem thêm: Người Lớn Có Bị Tay Chân Miệng, Bệnh Tay Chân Miệng
2.5. Thời Ramón Calderón (2006-2009)
Ramón Calderón được bầu làm chủ tịch câu lạc bộ ngày 2 tháng 7 năm 2006 đồng thời chỉ định Fabio Capello làm huấn luyện viên mới và Predrag Mijatović làm Giám đốc Thể thao. Real Madrid đoạt danh hiệu La Liga đầu tiên trong 4 năm vào năm 2007. Ngày 9 tháng 6 năm 2007, Real làm khách của Zaragoza tại La Romareda. Trận đấu khởi đầu một cách tệ hại khi Real Madrid phải thay đổi đội hình chỉ vài phút trước giờ bóng lăn sau khi hậu vệ trẻ Miguel Torres gặp phải chấn thương gân kheo khi khởi động. Zaragoza dẫn trước Real 2-1 cho đến gần cuối trận trong khi Barcelona cũng đang dẫn trước Espanyol 2-1. Cơ hội vô địch của Kền kền trắng xem như đã chấm hết. Thế nhưng, hai bàn thắng của Ruud van Nistelrooy vào lưới Zaragoza và của Raúl Tamudo vào lưới Barca trong những phút cuối đã đem lại hy vọng cho Real Madrid. Sevilla lúc đó bị Mallorca cầm chân với tỉ số 0-0. Vậy là chiến thắng trước Mallorca trên sân nhà ở vòng sau sẽ mang lại cho đội bóng áo trắng danh hiệu La Liga thứ 30.
Ngày 17 tháng 6, Real đối mặt với Mallorca trên sân Bernabéu trong khi Barcelona và Sevilla lần lượt gặp Gimnàstic de Tarragona và Villarreal. Real bị dẫn 0-1 ở hiệp 1, trong khi Barcelona dẫn 3-0 trên sân Tarragona; nhưng ba bàn thắng trong vòng 30 phút cuối đã đem chiến thắng 3-1 tới cho Real Madrid và danh hiệu quốc nội đầu tiên từ năm 2003. Reyes ghi bàn mở tỉ số sau đường kiến tạo của Higuaín. Một pha phản lưới nhà và một bàn thắng tuyệt đẹp khác của Reyes báo hiệu giờ ăn mừng đã tới với đội bóng áo trắng. Hàng ngàn cổ động viên của Real Madrid đã bắt đầu diễu hành đến Quảng trường Cibeles để ăn mừng chức vô địch.