Theo Tổ chức Unicef, Việt Nam là một trong số 34 quốc gia trên toàn cầu phải đối mặt với gánh nặng suy dinh dưỡng cao nhất. Theo đó, Việt Nam có hơn 230.000 trẻ em dưới 5 tuổi thiếu dinh dưỡng cấp tính nặng mỗi năm; đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi và tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi.
Bài viết có sự tư vấn chuyên môn của PGS.TS.BS Lê Bạch Mai, nguyên Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia; Giám đốc Y khoa miền Bắc, Hệ thống Phòng khám Dinh dưỡng – Y học Vận động namlimquangnam.net.
Đang xem: Bé suy dinh dưỡng phải làm sao
Suy dinh dưỡng trẻ em để lại những hậu quả nặng nề đến khi trưởng thành
Mục lục
Nguyên nhân khiến trẻ suy dinh dưỡngDấu hiệu nhận biết trẻ suy dinh dưỡngPhòng chống suy dinh dưỡng trẻ em bằng chế độ dinh dưỡngTrẻ suy dinh dưỡng cần bổ sung gì?
Suy dinh dưỡng ở trẻ em là gì?
Suy dinh dưỡng trẻ em là tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng bao gồm thiếu năng lượng, protein, lipid và các vi chất dinh dưỡng. Bệnh phổ biến ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, đặc biệt là trẻ dưới 3 tuổi. Theo báo cáo Tình hình Trẻ em Thế giới năm 2019 của Tổ chức Unicef, trên thế giới cứ 3 trẻ dưới 5 tuổi thì có một trẻ thiếu dinh dưỡng. Tại Việt Nam, có hơn 230.000 trẻ em dưới 5 tuổi thiếu dinh dưỡng cấp tính nặng mỗi năm; đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu dinh dưỡng thể thấp còi và tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi.
Những “con số biết nói” này đã dấy thực trạng số trẻ em phải chịu hậu quả từ chế độ dinh dưỡng thiếu khoa học, không đáp ứng đủ và đúng nhu cầu đang rất báo động.
Nguyên nhân khiến trẻ suy dinh dưỡng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em. Tuy nhiên, các nguyên nhân hầu như xuất phát từ chế độ dinh dưỡng cho trẻ, thói quen ăn uống không lành mạnh hay những vấn đề dinh dưỡng không tốt trong thai kỳ của người mẹ.
Chế độ dinh dưỡng không đầy đủ của mẹ khi mang thai
Dinh dưỡng trong thai kỳ của mẹ không đảm bảo đầy đủ và cân đối các nhóm chất: bột đường, đạm, béo, vitamin và khoáng chất, cũng như các vitamin và khoáng chất thiết yếu là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh.
PGS.TS.BS Lê Bạch Mai, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Giám đốc Y khoa Hệ thống Phòng khám Dinh dưỡng – Y học Vận động namlimquangnam.net (khu vực miền Bắc) cho biết, một điều khá thú vị mà không nhiều người biết đến là “mẹ ăn gì con thích nấy”, hay nói cách khác thói quen ăn uống của trẻ khi lớn lên chịu ảnh hưởng đến 80% sở thích và thói quen ăn uống của người mẹ lúc mang thai.
Ảnh hưởng nghiêm trọng của suy dinh dưỡng bào thai
Trẻ thiếu dinh dưỡng trong giai đoạn bú mẹ và ăn dặm bổ sung
Đối với trẻ sơ sinh, suy dinh dưỡng dễ gặp ở những trường hợp trẻ bị sinh non, thiếu tháng. Việc cho trẻ bú mẹ trong giờ đầu sau sinh và những ngày đầu đời cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển của trẻ. Theo số liệu Việt Nam thu thập năm 2018, chỉ 17% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Như vậy có đến 83% số trẻ đã không được cung cấp nguồn thức ăn tốt nhất dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Thực đơn ăn uống của mẹ không đủ chất cũng khiến nguồn sữa không đảm bảo cả về lượng lẫn về chất cũng chính là nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng.
83% số trẻ đã không được cung cấp nguồn thức ăn tốt nhất dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
“Nuôi con bằng sữa mẹ luôn được WHO, UNICEF, Bộ Y tế và các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo vì đem lại nhiều lợi ích cho cả mẹ và con. Đây là phương pháp nuôi dưỡng tự nhiên và tối ưu nhất đối với sự phát triển của trẻ nhỏ. Việc cho bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể giúp ngăn ngừa 13% trường hợp tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi”, PGS.TS.BS Lê Bạch Mai, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Giám đốc Y khoa Hệ thống Phòng khám Dinh dưỡng – Y học Vận động namlimquangnam.net (khu vực miền Bắc)
Vì nhiều lý do như mẹ thiếu sữa, sữa không đủ chất… nên mẹ phải bổ sung hoặc dùng sữa cho trẻ suy dinh dưỡng thay cho sữa mẹ, điều này khiến trẻ không nhận được đầy đủ các kháng thể từ sữa mẹ. Đến tuổi ăn dặm, nhiều trẻ lại được cho ăn dặm sai cách: không đảm bảo đủ nhu cầu năng lượng theo độ tuổi, cho ăn dặm quá sớm khi mà hệ thống tiêu hóa của trẻ vẫn chưa hoàn thiện (trước 6 tháng tuổi), kiêng ăn khi trẻ bị bệnh (chỉ cho ăn cháo muối, cháo đường kéo dài)…
Thêm vào đó, việc trẻ không được tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch nhất là đối với các mũi tiêm bắt buộc cũng khiến cho hệ miễn dịch trở nên yếu hơn trước các tác nhân gây bệnh. Từ đó, trẻ rất dễ mắc bệnh và khiến trẻ biếng ăn, khó hấp thu chất dinh dưỡng cũng là nguyên nhân trẻ suy dinh dưỡng.
Sai lầm trong cách nuôi con
Nguyên nhân lớn nhất thường khiến trẻ mắc phải “vấn nạn” suy dinh dưỡng chính là sai lầm trong cách nuôi dưỡng của người lớn. Theo đó, những bữa ăn không đảm bảo cân đối 4 nhóm chất cơ bản: bột đường, đạm, béo, vitamin và khoáng chất về lâu về dài khiến trẻ mất cân bằng dinh dưỡng.Ăn quá nhiều hay quá ít một loại thực phẩm đều ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ. Theo số liệu điều tra dinh dưỡng quốc gia năm 2015, 18% trẻ em không được cho ăn đa dạng thực phẩm, và 36% trẻ em không được cho ăn đủ số bữa cần thiết.Trong những năm đầu đời, trẻ có hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, nếu không được tiêm chủng đầy đủ có nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn như: viêm phổi, viêm đường hô hấp, tiêu chảy… tái đi tái lại nhiều lần. Khi bệnh, trẻ có hiện tượng biếng ăn hoặc phải sử dụng nhiều loại thuốc kháng sinh sẽ làm mất cân bằng hệ vi sinh đường ruột làm giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng.
Cách tính suy dinh dưỡng ở trẻ em dựa trên chỉ số nhân trắc
Bên cạnh những dấu hiệu thường thấy, có một cách chính xác hơn để có thể nhận biết tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ mà bố mẹ hoàn toàn có thể thực hiện ngay tại nhà. Nhưng cũng xin lưu ý rằng, cách thức này chỉ mang tính chất nhận biết và cảnh báo. Mọi thông tin chính xác cần được thăm khám tại các cơ sở uy tín cùng sự tư vấn chi tiết của các chuyên gia dinh dưỡng.
Hiện nay, Bộ Y tế và Viện Dinh Dưỡng Quốc gia áp dụng cách tính suy dinh dưỡng dựa vào Z-Score (đơn vị đo độ lệch chuẩn) của 4 chỉ số: cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi (hoặc chiều dài nằm theo tuổi nếu trẻ dưới 2 tuổi), cân nặng theo chiều cao và BMI theo tuổi.
Trong đó BMI theo tuổi sẽ được tính bằng công thức:
Chỉ số BMI = Cân nặng (kg) / ( Chiều cao (m)* Chiều cao(m))
Bạn có thể xem cách tính chi tiết tại đây: Cách tính suy dinh dưỡng trẻ em
Dấu hiệu nhận biết trẻ suy dinh dưỡng
Bệnh suy dinh dưỡng trẻ em được chia theo nhiều mức độ khác nhau từ nhẹ, vừa đến nặng.
Suy dinh dưỡng diễn ra rất sớm nhưng để lại hậu quả lâu dài: suy dinh dưỡng bào thai.Suy dinh dưỡng mức độ nhẹ đến vừa: suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, suy dinh dưỡng thấp còi, suy dinh dưỡng gầy còm.Suy dinh dưỡng mức độ nặng: suy dinh dưỡng thể phù, suy dinh dưỡng thể teo đét, suy dinh dưỡng thể hỗn hợp.
Suy dinh dưỡng bào thai
Nếu trẻ sinh đủ tháng có cân nặng lúc sinh dưới 2.500g có thể là hệ quả của tình trạng suy dinh dưỡng bào thai.
Xem thêm: Người Lành Mang Mầm Bệnh Viêm Gan B, Thông Tin Từ A Đến Z Bệnh Viêm Gan B
Bên cạnh đó, trẻ suy dinh dưỡng bào thai còn có thêm các dấu hiệu sau:
Cuống rốn teo đét và có màu vàng.Rất dễ hạ đường huyết gây nên hiện tượng co giật và rối loạn nhịp thở.Hạ canxi máu gây co giật và các cơn ngừng thở.Trẻ rất dễ hạ thân nhiệt
Trẻ mắc bệnh suy dinh dưỡng bào thai có nguy cơ tử vong cao. Bên cạnh đó, suy dinh dưỡng bào thai còn dẫn đến nguy cơ mắc bệnh mạn tính như tăng huyết áp, tim mạch và di chứng thần kinh đe dọa sức khỏe của trẻ về sau này.
Suy dinh dưỡng thấp còi
Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chiều cao của trẻ sơ sinh khỏe mạnh khoảng 50cm. Trong 3 tháng đầu, trẻ tăng thêm khoảng 3cm/tháng và tăng 2cm ở các tháng tiếp theo. Dấu hiệu dễ nhận thấy nhất của suy dinh dưỡng thấp còi chính là tình trạng chậm tăng trưởng chiều cao, lúc này trẻ chỉ đạt được 90% theo mức tiêu chuẩn.
Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân
Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là khi cân nặng của trẻ thấp hơn cân nặng tiêu chuẩn của WHO theo độ tuổi từ 90% trở xuống.
Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ được chia thành 3 cấp độ như sau:
Cấp độ 1: Trọng lượng của trẻ chỉ đạt 90% so với cân nặng chuẩn ở độ tuổi của mình.Cấp độ 2: Trọng lượng của trẻ chỉ đạt 75% so với cân nặng chuẩn ở độ tuổi của mình.Cấp độ 3: Trọng lượng của trẻ chỉ đạt 60% so với cân nặng chuẩn ở độ tuổi của mình.
Trẻ suy dinh dưỡng thiếu cân thường có dấu hiệu: biếng ăn hoặc ăn ít, cơ thể khó hấp thu các chất dinh dưỡng, khó tăng cân…
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân có thể kể đến như: trẻ không được bú mẹ trong 6 tháng đầu, sữa mẹ không đủ dưỡng chất, trẻ ăn bổ sung quá sớm, trẻ bị thiếu vi chất, chế độ ăn thiếu khoa học, sức đề kháng kém; trẻ hay bị ốm nên dẫn đến tình trạng chán ăn, ăn không đủ chất…
Suy dinh dưỡng gầy còm
Trong trường hợp cân nặng của trẻ chỉ đạt 60% so với mức cân nặng tiêu chuẩn của WHO và đi kèm những triệu chứng sau: trẻ biếng ăn, khuôn mặt xanh xao, thở khó khăn, rối loạn tiêu hóa thường xuyên. Đặc biệt, trẻ có làn da nhăn nheo, vẻ ngoài “già nua” hơn so với tuổi thật của mình và nhiệt độ cơ thể thường giảm bất thường thì khả năng trẻ đã rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm là rất cao.
Bảng đánh giá chiều cao – cân nặng của trẻ theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
Suy dinh dưỡng thể teo đét
Lúc này trẻ đang bị “đói thật sự” với tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng ở mức báo động. Biểu hiện của trẻ suy dinh dưỡng thể teo đét là cơ thể gầy khô, hốc hác khi đã mất hết lớp mỡ dưới da ở toàn thân, chỉ còn da bọc xương và da nhăn nheo như người già. Trẻ suy dinh dưỡng thể teo đét rất dễ nhiễm bệnh, hay quấy khóc và thường xuyên rối loạn tiêu hóa.
Suy dinh dưỡng thể phù
Đây là tình trạng suy dinh dưỡng khiến cơ thể trở nên “mũm mĩm” và “tròn trịa hơn”, điều này đã khiến nhiều bố mẹ nhầm tưởng con mình đang rất khỏe mạnh. Khởi đầu từ mí mắt, mặt và hai chi dưới, sau đó sẽ phù toàn thân kèm theo tràn dịch màng bụng, màng phổi…
Đặc điểm ở trẻ suy dinh dưỡng thể phù là sưng toàn thân, da trắng bệch, cơ mềm, cân nặng chỉ đạt khoảng 60-80% so với tiêu chuẩn, tóc thưa mềm, dễ gãy, bụng chướng to…Trên da xuất hiện những đốm nhỏ đỏ li ti khắp cơ thể, dần bị đổi màu và bong tróc, rỉ nước, dễ dàng bị nhiễm trùng và lở loét.
Suy dinh dưỡng thể hỗn hợp
Đây là suy dinh dưỡng thể phù do được điều trị, khi trẻ hết phù sẽ trở thành teo đét nhưng gan vẫn còn to do thoái hóa mỡ và chưa được phục hồi hoàn toàn. Ở giai đoạn này, trẻ chỉ đạt 60% mức cân nặng tiêu chuẩn, tuy bị teo cơ nhưng có thể có biểu hiện phù, biếng ăn, rối loạn tiêu hóa, bụng bị phình to. Hoặc trẻ suy dinh dưỡng teo đét, da bọc xương nhưng lại kèm rối loạn sắc tố da.
Trên đây là dấu hiệu nhận biết các thể suy dinh dưỡng thường gặp ở trẻ em. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ, tại Trung tâm Dinh dưỡng – Y học Vận động namlimquangnam.net, các chuyên gia dinh dưỡng áp dụng chỉ số Z-score theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Đây là chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dựa vào cân nặng, chiều cao và độ tuổi. Nếu trẻ có những biểu hiện như trên, bố mẹ cần đưa trẻ đến ngay trung tâm dinh dưỡng để các chuyên gia đánh giá chính xác tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ và có biện pháp can thiệp kịp thời.
Hậu quả của bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, 54% số trường hợp tử vong của trẻ ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) có liên quan đến suy dinh dưỡng mức độ vừa và nhẹ.
Theo PGS.TS.BS Lê Bạch Mai, nếu trẻ mắc bệnh suy dinh dưỡng mà không có giải pháp can thiệp kịp thời, trẻ sẽ phải gánh chịu hàng loạt vấn đề như: không thể phát triển tầm vóc, dễ mắc bệnh, chậm phát triển trí não, ngôn ngữ, giao tiếp kém hơn và việc học tập cũng trở nên khó khăn hơn.
Một nghiên cứu của Viện Dinh Dưỡng đã chỉ ra rằng hậu quả của suy dinh dưỡng có thể kéo dài qua nhiều thế hệ. Phụ nữ từng bị suy dinh dưỡng khi còn nhỏ hoặc ở tuổi vị thành niên đến khi lớn lên có khả năng bị suy dinh dưỡng khi mang thai. Nếu mẹ bị suy dinh dưỡng, con sinh ra yếu ớt, nhẹ cân dễ dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng (thiếu cân hoặc thấp còi) ngay trong năm đầu sau sinh. Nguy hiểm hơn, những trẻ này có nguy cơ tử vong cao hơn so với trẻ bình thường và khó có khả năng phát triển bình thường.
Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em bằng chế độ dinh dưỡng
Bà Henrietta Fore, giám đốc Điều hành UNICEF cho rằng “Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ về kỹ thuật, văn hóa và xã hội trong những thập kỷ qua, nhưng chúng ta đã bỏ qua một thực tế cơ bản nhất: Nếu trẻ em ăn uống kém dinh dưỡng, trẻ em sẽ không sống khỏe mạnh. Hàng triệu trẻ em trên khắp thế giới đang có chế độ ăn không lành mạnh và cần được thay đổi. Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em không đơn thuần chỉ là có đủ thức ăn cho trẻ ăn mà trên hết là phải có thức ăn lành mạnh cho trẻ ăn.”
Suy dinh dưỡng trẻ em là bệnh lý liên quan trực tiếp đến chế độ dinh dưỡng và thói quen ăn uống. Vì thế, để phòng ngừa tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em chúng ta cần thay đổi từ chế độ dinh dưỡng cho trẻ trong bụng mẹ đến khi sinh ra đời.
Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em bằng chế độ dinh dưỡng trong thai kỳ
PGS.TS.BS Lê Bạch Mai cho biết, những người mẹ có chế độ dinh dưỡng đầy đủ, hợp lý, tăng cân tốt (10-12kg) trong thai kỳ sẽ sinh ra những em bé khỏe mạnh, thông minh.
Xem thêm: Nước Tiểu Vàng Đục Là Bệnh Gì ? Nước Tiểu Đục: Nguyên Nhân, Chẩn Đoán Và Điều Trị
Phụ nữ khi mang thai có nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng cao hơn trước khi có thai, nhu cầu năng lượng của người mẹ tăng tỷ lệ thuận với tháng tuổi của thai nhi. Để đạt mức tăng cân từ 10 – 12kg vào cuối thai kỳ, các bà mẹ cần ăn nhiều hơn để đảm bảo năng lượng tăng thêm 500 Kcal/ngày và đạt mức 2260 Kcal/ ngày đối với người lao động nhẹ và 2550 Kcal/ngày đối với người lao động trung bình. Trong giai đoạn này, mẹ bầu cần chú ý bổ sung đủ các dưỡng chất ở cả 4 nhóm: bột đường (glucid); đạm (protein); béo (lipid); các loại vitamin, chất xơ và khoáng chất. Nếu mẹ bầu đảm bảo được chế độ dinh dưỡng hợp lý trong thai kỳ sẽ góp phần không nhỏ trong việc phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ. Không nên quá thừa hoặc quá thiếu các chất này. Nếu thiếu dinh dưỡng, mẹ dễ bị thiếu năng lượng, trẻ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng bào thai.
Chế độ dinh dưỡng giai đoạn cho con bú
Theo PGS.TS.BS Lê Bạch Mai, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cần được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời và nên kéo dài đến 24 tháng tuổi. Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy trẻ được nuôi bằng sữa mẹ ít mắc các bệnh nhiễm khuẩn, suy dinh dưỡng, thừa cân – béo phì, giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính khi trưởng thành…